Trần Mỹ Duyệt
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình! Cái thanh bình, yên tĩnh của lòng người mà ngày ngày phải đối phó với những biến loạn về luân lý, đạo đức, văn hóa, kinh tế, xã hội, và cả chính trị nữa.
Nhiều nơi người ta mừng Giáng Sinh một cách nhộn nhịp, tưng bừng. Nào hang đá, bò lừa, nào cây Noel, nhạc hòa vang réo rắt… Người ta ăn chơi và tha hồ mua sắm, tặng quà. Ngược lại, cũng có những nơi, mà phần đông là thế, ở đó cơm không có ăn, áo quần không đủ mặc. Nhiều người phải co ro, run rẩy lần mò trong đêm tối để đến thánh đường.
Tuần rồi, trong lúc trả lời những tin nhắn, thì có một lá thư gửi từ miền Tây Nguyên Việt Nam với những dòng chữ:
“Kính thưa quý vị,
Hậu quả của cơn đại dịch Covid 19 làm cho kinh tế khó khăn và với chúng con thì lại càng khó khăn hơn.
Vì vậy, con xin quý vị mở lòng thương cho chúng con 5-7$ như một món quà chia sẻ niềm vui Mừng Sinh Nhật Hài Đồng Giêsu của quý vị với các em thiếu nhi đồng bào dân tộc J’Rai tại cánh đồng truyền giáo Tây Nguyên chúng con”.
Đối với những người nghèo hèn và các em nhỏ đồng bào dân tộc này thì Giêsu kể như lỗ, vì họ và các em chẳng có gì mà mừng, mà tặng; ngược lại, Maria, Giuse và Giêsu còn phải móc túi ra để tặng quà cho họ và các em nữa. Đúng ra, Thánh Gia cũng nghèo nên chẳng có quà cáp gì theo cái nghĩa trần thế, ngoại trừ những ơn phước lành mà các Đấng tuôn đổ xuống trên những tâm hồn thiện chí như lời thiên sứ đã hát mừng trong đêm đầu tiên Giêsu giáng trần: “Vinh danh Chúa cả trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.” (Luc 2:14)
Mỗi lần Giáng Sinh về, gần đến ngày kỷ niệm, Maria và Giuse thường hay ngồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đã qua kể từ ngày ấy tại đồng quê Belem. Nghĩ lại mà thấy xót xa cho Hài Nhi, sinh xuống để cứu đời, mà đời đối xử với Ngài quá tệ. Giuse còn nhớ rất kỹ, không một ai, không một nhà trọ nào trong cái thành Giêrusalem đã đón tiếp ông bà ngoại trừ cái chuồng bò bỏ trống ngoài đồng quê Belem. Đêm đó, cũng may mà trong cái chuồng bò, còn có cái máng cỏ. Giuse đã phải vất vả lau chùi cho bớt dơ bẩn, cho bớt mùi tanh hôi. Tội nghiệp cho Giêsu, cái máng cỏ như vậy thì sao mà ngủ cho được. Vừa tanh, vừa hôi, lại vừa lạnh lẽo nữa. Cũng nhờ mấy con bò, con lừa và bầy chiên do các mục đồng dẫn tới hà hơi sưởi ấm, nếu không một trẻ sơ sinh vừa chào đời như vậy cũng phải chết cóng. Gần 2000 năm sau, Nhạc sỹ Hải Linh đã cảm động ghi lại cảnh tượng này:
“Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời.
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa!”
Còn Maria thì hồi tưởng lại cái cảnh đêm hôm đó. Do linh tính của người mẹ báo cho biết gần đến ngày sinh, nên trên đường theo Giuse về Belem kiểm kê dân số cũng mang theo được mấy tấm khăn, vài ba thước vải thô, rẻ tiền làm tã lót. Đó là chăn ấm, nệm êm của Giêsu. Và đó cũng là cái nôi có một không hai do Giuse quét dọn từ chiếc máng bò lừa.
Ngoài những kỷ niệm đó, cả Giuse, Maria, và có lẽ Giêsu nữa vẫn nhớ như in là cũng vào giáng sinh năm đó, khi các mục đồng đang sắp sửa ra về, còn ba vua cũng đang nói những lời từ giã với Giuse, thì bỗng nhiên có một bà già từ đâu xuất hiện. Tóc bà bạc phơ, thân hình bà tiều tụy, nét mặt bà buồn rầu, dáng dấp bà xem ra rất mỏi mệt. Lưng bà gù gập xuống gần sát đất như thể bà đang mang trên người bà sức nặng ngàn cân. Bà đến hang đá để làm gì?
Bà là ai? Tại sao lại đến đây? Hay bà là một phù thủy ở quanh quẩn đâu đó cạnh Giêrusalem muốn đến để hãm hại Hài Nhi? Trong lúc Maria hồi hộp đưa mắt dõi theo con người kỳ lạ ấy, thì Giuse đã thủ sẵn chiếc gậy mà ông đã mang theo suốt cuộc hành trình từ Nazareth về Belem. Nhưng chỉ có Giêsu bé thơ thì vẫn nằm im và không tỏ dấu gì hoảng sợ. Maria và Giuse đưa mắt nhìn xem và hỏi ý, thì dường như Hài Nhi muốn được gặp bà.
Thế là bà tiến lại gần bên máng cỏ. Bà khóc. Bà trút tất cả những nỗi niềm chất chứa có lẽ từ rất xa xưa lên tấm thân bé bỏng của Giêsu. Trước con mắt lo sợ của Giuse, của Maria bà thò tay vào túi lấy ra một vật gì như trái táo đưa cho Giêsu. Và như một phép nhiệm mầu, khi Giêsu vừa đưa tay đón lấy nó, bà bỗng trở nên trẻ, đẹp và hạnh phúc lạ thường.
Rồi âm thầm như lúc đến, bà đã ra khỏi hang đá và biến mất trong bóng đêm. Mãi đến sau này, khi Giêsu chết treo trên thập giá, lúc ấy Maria mới hiểu rõ hơn về vật mà hôm đó người đàn bà kỳ lạ đã trao cho Người, đó là trái táo, trái táo vườn địa đàng, trái táo Evà đã hái và đưa cho Adong cùng ăn. Hệ quả của nó là sự chết và tội lỗi. Sau này, mỗi lần Giáng Sinh về, cũng một Giáng Sinh như mọi khi nhưng có lẽ lại là một Giáng Sinh rất ý nghĩa thêm vào những kỷ niệm của Maria và Giuse.
Hình như lịch sử lập lại. Sau khi Giêsu đã từ giã Mẹ về lại Thiên Quốc, Giuse cũng đã ra đi gặp các Tổ Phụ, chỉ còn lại một mình Maria nhưng mỗi lần nhớ đến đó, Maria không ngừng cảm ơn Thiên Chúa, và ghi nhớ mãi giây phút giao hòa đất trời, giây phút con người được Thiên Chúa thương yêu và tha thứ như thế nào. Đó đích thực là ý nghĩa của Giáng Sinh. Và đêm nay đây, đêm kỷ niệm Con Chúa giáng trần năm 2023, với trí tưởng tượng lùi về cảnh đồng quê Belem hơn hai ngàn năm trước, Giêsu, Maria, Giuse cũng bắt gặp lẫn trong đoàn người đến viếng hang đá một người. Người này có lẽ đã đến từ rất xa, xa lắm ở một phần đất nào đó trên hành tinh này. Người này trông rất mệt mỏi, tiều tụy, già nua, và lưng bị gù còng xuống do những gánh nặng của cả tâm hồn lẫn thể xác! Có cái gì đó như một trái đắng lúc nào cũng đốt nóng và làm quặn đau trong lòng, như một khối đá cứ mãi làm cho lòng nặng nề và chùng xuống. Vầng trán nhăn nheo chứng tỏ người này từng đã bị dày vò cả tâm lý lẫn thể lý. Sức ép của công việc, sức chịu đựng với cuộc sống, với thời gian qua thân phận con người. Nỗi khổ của người này là không nói được với ai, và cũng không ai có thể hiểu được những nỗi đau ấy nên không hy vọng nhận được một lời chia sẻ hay khích lệ. Và vì thế người này đã phải câm nín, cay đắng!
Người này đến đây để làm gì? Chắc không phải là vị vua thứ tư đến từ một vương quốc xa lạ? Hay người này đến để trút bỏ những khối nặng nề có đó trong cuộc đời, trong tâm hồn lên Giêsu bé nhỏ? Hoặc cũng có thể người này đến để kể lể và đổ lỗi cho cuộc đời, cho thân phận kiếp người với Giêsu?! Nếu vậy thì làm phiền giấc ngủ của Hài Nhi quá. Những kẻ đến rồi đi tấp nập như vậy chỉ gây ồn ào và đánh thức giấc ngủ của Ngài. Tuy nghĩ là nghĩ như vậy, nhưng dường như ánh mắt của Maria đã bắt gặp ánh nhìn của người này. Người này đến để gặp Hài Nhi thật lòng. Không đến để phiền hà, nhưng đến để tìm nơi Hài Nhi niềm hy vọng với đức tin đơn sơ, mặc dù vẫn đang mang trong lòng những ưu tư chồng chất. Trước mặt Hài Nhi Giêsu, người này vẫn chỉ trầm lặng, và rất suy tư.
Nhưng rồi cùng lúc Hài Nhi Giêsu mở mắt mỉm cười với người này.
Như Evà trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đã run run dâng Chúa Hài Nhi trái táo mà bà đã hái từ cây táo giữa vườn địa đàng, trái táo oan kiên cho bà, cho Adong, và cho toàn thể nhân loại. Người này cũng rút ra từ trong túi áo của mình và dâng lên Ngài một trái táo: Trái táo cuộc đời. Trái táo mà người này đã hái trong khu vườn diệu quang của cuộc đời đã được Thượng Đế ban tặng. Thời gian ban đầu, khi ăn trái táo ấy người này cảm thấy ngọt lịm bờ môi, chất ngất và xôn xao cõi lòng. Nhưng với năm tháng trôi qua, nó đã trở thành trái đắng tiết ra nhiều độc tố khiến người này bị ngộ độc, và không còn khả năng tiêu hóa những vấn đề trong cuộc sống. Hệ thống hô hấp và tuần hoàn bị tắc nghẽn khiến cho hơi thở nhiều lúc nặng nề, hổn hển không còn mang được những dòng máu nóng của tình yêu chuyển vào trái tim đang ngày càng trở nên cằn cỗi, khô héo. Nó cũng chặn lại những dòng oxy tinh tuyền dẫn đến não, kết quả là những suy nghĩ của người này trở nên hoang tưởng với thế giới bên ngoài và lạc lối trên đường về vĩnh cửu.
Rồi sau khi ngỏ lời cảm ơn Giuse, Maria, và Hài Nhi, người này đã lặng lẽ, lầm lũi đi vào màn đêm âm u như đi vào cuộc đời, trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm và bình an, vì đã đặt vào tay Giêsu trái táo của đời mình, của kiếp người. Và người khách lạ ấy chính là bạn, là tôi, là chúng ta, con cháu Adong, Evà.
__________
*Hiệu đính từ bài viết đã được phổ biến năm 2019
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?